Lợi nhuận hàng nghìn tỷ đồng tiếp tục chứng tỏ ngân hàng là một trong những ngành năng động nhất trong bối cảnh đại dịch. Tuy nhiên, màu sáng không còn là tình hình chung của toàn ngành.
Ngân hàng Việt Nam Thương Tín vẫn là ngân hàng dẫn đầu về việc duy trì lợi nhuận trong nhiều năm. Tuy nhiên, giống như kết quả bán niên, tăng trưởng trong quý 3 vẫn ở mức âm, thu hẹp khoảng cách giữa Ngân hàng Viễn thông Việt Nam với các ngân hàng khác. Trong ba tháng qua, lợi nhuận trước thuế của ngân hàng đã giảm hơn 20% xuống còn 4.983 tỷ đồng. So với ngưỡng 3% trong nửa đầu năm, mức giảm đã tăng lên đáng kể. Kết quả là lợi nhuận 9 tháng đã giảm 17% so với cùng kỳ năm ngoái. Ngoài các giao dịch ngoại hối mạnh mẽ của Ngân hàng Thương mại Việt Nam, các đơn vị kinh doanh khác cũng chỉ lang thang hoặc co cụm lại. Đồng thời, dự phòng rủi ro tín dụng của ngân hàng đã tăng hơn 25% trong chín tháng.
Ở những ngân hàng công bố dữ liệu tài chính gần đây, kết quả tương tự thấp hơn, chẳng hạn như Vietcombank hay Sacombank. Báo cáo ba năm gần đây nhất của ngân hàng cho thấy lợi nhuận của ngân hàng đạt gần 900 tỷ đồng, giảm 13% so với quý 3 năm ngoái. Trong 9 tháng đầu năm, lợi nhuận của Sacombank cũng giảm 7%.
Khác với Vietcombank, hoạt động kinh doanh của Sacombank tiếp tục phát triển. Thu nhập lãi 9 tháng tăng gần 15%, thu nhập dịch vụ tăng 25%, thu nhập ngoại hối tăng 32%. Tuy nhiên, chi phí dự trữ quá cao, lên tới gần 70%, làm xói mòn lợi nhuận của các ngân hàng.
Đây cũng là câu chuyện về dự trữ, nhưng ở nhiều ngân hàng khác, đây là nguyên nhân khiến phí tăng đáng kể. . Với sự gia tăng liên tục của các đơn vị kinh doanh, việc trích lập dự phòng chỉ bằng hoặc ít hơn cùng kỳ đã giúp nhiều ngân hàng vẫn đạt kết quả khả quan.
Cũng tại các ngân hàng lớn như Viễn thông Việt Nam, nhưng lợi nhuận trước thuế 9 tháng của VPBank đã tăng tới 30%. Kết quả là sự cộng hưởng của nhiều yếu tố. Trong số đó, tổng lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh của ngân hàng không quá đột biến, nhưng chỉ tăng hơn 7% so với cùng kỳ. Tuy nhiên, chi phí hoạt động giảm gần 6% và việc trích lập dự phòng chỉ được thực hiện đồng thời, giúp thúc đẩy tăng trưởng lợi nhuận.
Kết quả tăng trưởng cũng là mặt bằng chung của MB, ACB, VIB, TPBank hay MSB. MB, tăng trưởng trong quý 3 chủ yếu do giảm dự phòng rủi ro khiến lợi nhuận tăng 10%. Trong chín tháng qua, lợi nhuận của ngân hàng đã tăng gần 7%, nhờ tổng lợi nhuận hoạt động tăng 9% và trích lập dự phòng tăng nhẹ. Chủ yếu là do hoạt động kinh doanh chính tăng đột biến. Dự phòng rủi ro trong 9 tháng của ngân hàng cao gấp 4 lần cùng kỳ, nhưng do thu nhập lãi thuần và chứng khoán đầu tư nên tổng lợi nhuận hoạt động cũng tăng đáng kể. Kết quả là lợi nhuận trước thuế của ACB tăng 15% lên 6.410 tỷ đồng.
Mặc dù mức tăng trưởng khác nhau, nhưng “mẫu số” chung của ngân hàng là sự gia tăng đòn bẩy. Nợ xấu và tồn đọng (nợ nhóm 2) ..- Cuối quý III, quy mô nợ xấu của Ngân hàng Viễn thông Việt Nam tăng 15% so với đầu năm, đạt gần 7,9 nghìn tỷ đồng. Nợ nhóm 3 (nhỏ hơn nợ tiêu chuẩn) lớn hơn 4 lần, nợ nhóm 4 gần 3 lần, và nợ nhóm 5 giảm 16%. Ngoài ra, nhóm nợ thứ hai (nợ đặc biệt) cũng tăng 60%, đạt 4,156 tỷ euro. – So với VPBank, tổng nợ xấu cuối quý 3 đã vượt 10 nghìn tỷ đồng, tăng 15% so với cùng kỳ. -năm. . Nợ Nhóm 2 của ngân hàng cũng tăng hơn 2,5 nghìn tỷ USD.
MB và ACB cũng trong tình trạng tương tự, lợi nhuận của cả hai ngân hàng đều tăng. Quy mô nợ xấu MB đã tăng hơn 39% so với đầu năm, quy mô nợ nhóm 5 tăng gấp 3 lần, nợ nhóm 2 tăng hơn 100 tỷ đồng. Với ACB, tổng quy mô nợ xấu đã tăng 71%. – Báo cáo của FiinGroup ước tính rằng tác động của Covid-19 chưa được phản ánh đầy đủ đến kết quả hoạt động kinh doanh ngân hàng trong năm nay, đặc biệt là đối với các khoản nợ tiềm tàng do các ngân hàng không hoạt động kinh doanh tích cực.
Theo số liệu từ bộ phận này, Tác động của Covid-19 đến chất lượng tín dụng (có nghĩa là sự chậm trễ trong hoạt động ngân hàng trong khu vực Việt Nam) Bắt đầu từ cuộc khủng hoảng 2008, việc cung cấp chi tiêu đã bị trì hoãn trong khoảng 4 quý (cũng do việc sử dụng cơ chế trái phiếu đặc biệt VAMC). Hiện tại, hầu hết các ngân hàng đã hoàn thành quyết toán, nhưng một số ngân hàng sẽ tiếp tục phân bổ cho đến năm ngoái.) Do đó, dự phòng nợ tiềm tàng được phân bổ vào quý sau và có thể bị ảnh hưởng bởi những thay đổi trong chính sách kế toán của ngân hàng.