Giảm sở hữu chéo của đầu tư, đặc biệt là trong ngành ngân hàng, là một vấn đề đau đầu cho các nhà hoạch định chính sách. Sở hữu chéo có thể hiểu đơn giản là một hiện tượng trong đó một công ty sở hữu một công ty khác. Không chỉ Việt Nam, mà cả luật pháp của các quốc gia khác trên thế giới cũng không cấm loại giao dịch này, nhưng do rủi ro rất lớn, họ vẫn đang tìm kiếm các hạn chế và giám sát.
Mặc dù thị trường tài chính chỉ mới phát triển từ đầu, nhưng quyền sở hữu của ngành ngân hàng Việt Nam đã trở nên vô cùng phức tạp. Ngân hàng A không chỉ đầu tư vào Ngân hàng B hoặc Ngân hàng C, không có gì lạ khi một số ngân hàng có cùng chủ sở hữu.
Hai tác giả Nguyễn Xuân nghiên cứu về tình hình sở hữu chéo trong ngành ngân hàng Việt Nam. Thanh và Đỗ Thiện Anh Tuấn (Chương trình giảng dạy kinh tế Fu Bright-FETP) vừa công bố tại hội thảo do Ủy ban giám sát tài chính quốc gia Hoa Kỳ tổ chức. Hai tác giả đã chia sở hữu chéo thành sáu hình thức và cũng nêu bật các mô hình cụ thể chứng minh tình trạng sở hữu chéo hỗn loạn ở Việt Nam.
Tác giả của Fulbright nói rằng Việt Nam là một hình thức sở hữu chéo phổ biến. Việt Nam có một thực tế là các ngân hàng thương mại nhà nước nắm giữ cổ phần trong các ngân hàng cổ phần hoặc liên doanh.
Nói chung, một trong những động lực để các ngân hàng vượt qua dòng vốn là thu được lợi nhuận đầu tư rủi ro cao mà không gặp rủi ro. Quan sát các quy tắc của riêng bạn. Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng đây không phải là trường hợp của các ngân hàng đại chúng tại Việt Nam. Ruan Xuan Qing nói: “Các ngân hàng thương mại nhà nước không cần cơ cấu sở hữu chéo, chủ yếu là vì lý do lịch sử. Khi họ được yêu cầu tiếp quản các ngân hàng mới, họ đã giao nhau.” Hình thức sở hữu chéo thứ hai là sở hữu nhà nước. Doanh nghiệp đóng góp vào vốn chủ sở hữu của ngân hàng.
Tác giả của Fulbright chỉ ra rằng hầu hết các doanh nghiệp nhà nước lớn và tất cả các tập đoàn kinh tế đều có cổ phần trong các ngân hàng thương mại, nhưng họ không có quyền kiểm soát, không kiểm soát nó. Thanh nói: “Quyền kiểm soát nằm trong tay các cổ đông và nhà đầu tư khác.” Trong trường hợp này, chủ ngân hàng được hưởng lợi từ vốn nhà nước. Loại sở hữu chéo thứ ba là hình thức mà một ngân hàng cổ phần nắm giữ cổ phiếu của bên kia. Theo ông Ruan, các ngân hàng có thể nắm giữ cổ phần tương đương thông qua các công ty chứng khoán hoặc đầu tư quỹ. Hoặc công ty đầu tư tài chính. Ông Thành nói: “Công ty đầu tư tài chính của Việt Nam là một doanh nghiệp bình thường và không phải tuân theo bất kỳ quy định cụ thể nào. Do đó, không cần thiết phải tiết lộ thông tin khi hoạt động như một quỹ. Nhà đầu tư hoặc công ty chứng khoán.” Hình thức này. Ví dụ mới nhất là cách kiếm tiền từ ông Ruan Dejian (bầu Jian En) để nắm giữ cổ phần. . Cơ quan này vừa thực hiện một cuộc khảo sát của hầu hết các ngân hàng. Do đó, Kane đã bầu các công ty đầu tư tài chính và sử dụng các pháp nhân này để vay ngân hàng. Ông và gia đình đã sử dụng hầu hết số tiền để thêm nhiều cổ phiếu vào ngân hàng thứ hai, và sau đó sử dụng cùng một lượng cổ phiếu trong thế chấp cho khoản vay ngân hàng đầu tiên. Cuối cùng, do mối quan hệ sở hữu phức tạp, dòng vốn và giá trị thực tế thấp hơn nhiều so với số vốn “ảo”.
Hình thức sở hữu chéo tiếp theo là một ngân hàng, một nhà đầu tư lớn trong một công ty chứng khoán.
Theo các chuyên gia của Fulbright, hình thức sở hữu chéo thứ sáu là các nhà đầu tư lớn Nắm giữ cổ phần trong các công ty phi tài chính và ngân hàng. Giải thích của tác giả là do đặc thù của Việt Nam. Theo quy định hiện hành, chỉ những người có mối quan hệ huyết thống và quyền sở hữu trong các công ty liên quan mới có thể tiết lộ thông tin. Tuy nhiên, vẫn còn một mối quan hệ làm việc giữa các nhà tuyển dụng và nhân viên thực sự, cụ thể là CEO và chủ tịch hội đồng quản trị. Vì các thành viên của hội đồng quản trị và chủ tịch phải công bố thông tin, nhóm đầu tư có thể thuê các vị trí này. Do đó, chuyên gia Ruan Xuan Khánh đề nghị xác định lại khái niệm xử phạt liên quan đến nhân sự và tiết lộ thông tin để giảm sở hữu chéo.
Thành Thành Lan