Ông Trần Xuân Quang, Phó Tổng Giám đốc Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam .—— Ông nhìn nhận nhu cầu vốn của công ty hiện nay như thế nào so với những năm trước?
– So với những năm trước, nhu cầu vốn của doanh nghiệp không cao. Nền kinh tế chưa có dấu hiệu phục hồi rõ nét, nhiều lĩnh vực sản xuất, thương mại còn khó khăn. Nhu cầu đầu tư phát triển sản phẩm kinh doanh giảm nhiều so với các năm trước, việc tính toán phương án triển khai dự án cũng rất thận trọng. Khó khăn cũng khiến người tiêu dùng thắt chặt chi tiêu và hạn chế tiêu thụ hàng hóa của công ty. — Diễn biến kinh tế 10 tháng đầu năm cho thấy công ty thiếu vốn, không vay được vốn ngân hàng. Đồng thời, ngân hàng có nguồn vốn dồi dào. Vậy theo bạn, đâu là lý do dẫn đến nghịch lý này?
– Tôi nhìn nhận vấn đề theo một cách khác. Trên thực tế, những công ty khó thu được vốn có thể là những công ty kinh doanh khó khăn do khả năng cạnh tranh hạn chế, hàng tồn kho nhiều, tỷ lệ đòn bẩy cao. Đối mặt với áp lực thua lỗ, suy giảm vốn chủ sở hữu, phân bổ đầu tư, sử dụng vốn vào mục đích xấu… tất nhiên đây là những khó khăn liên quan đến năng lực (hoặc thậm chí là khả năng) của công ty. Đối với những khách hàng này, trong bối cảnh kinh tế tiềm ẩn nhiều rủi ro như hiện nay, chắc chắn các ngân hàng sẽ rất thận trọng khi xem xét cho vay vì họ tránh cho vay. Tăng gánh nặng nợ xấu cho bản thân. Ngược lại, những công ty có khả năng tài chính ổn định và kế hoạch kinh doanh có thể đạt được thì khả năng tiếp cận vốn tương đối dễ dàng. Hiện nay, toàn ngành ngân hàng, đặc biệt là ngân hàng hàng hải đều ưu đãi tín dụng với lãi suất ưu đãi, thủ tục thanh toán nhanh chóng tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh. Vì vậy, theo tôi, bản chất của một số hiện tượng hiện nay không thể hiện điều nghịch lý đã nêu.
– Với tư cách là kênh dẫn vốn của công ty, theo ông, các công ty, ngân hàng và cơ quan quản lý nhà nước nên áp dụng những giải pháp nào để tháo gỡ nút thắt và cho phép dòng vốn luân chuyển?
– Trước hết, tôi nghĩ chúng tôi mong đợi hành động chính trị. Hệ thống này, đặc biệt là chính sách tiền tệ, có hiệu quả để phục hồi và tăng trưởng kinh tế bền vững. Sự phục hồi kinh tế tổng thể sẽ kích thích nhu cầu tăng lên và thúc đẩy lưu thông hàng hóa.
Trong giai đoạn tới, Ngân hàng Quốc gia sẽ tiếp tục duy trì thành quả của mình thông qua chính sách tiền tệ linh hoạt và hoạt động hiệu quả. Duy trì hợp lý hệ thống thanh khoản của các ngân hàng thương mại và nền kinh tế. Kiểm soát tốt tỷ giá và lãi suất cũng sẽ giúp lấy lại niềm tin của doanh nghiệp vào tư duy đầu tư. Ngoài ra, việc xử lý nợ xấu thông qua VAMC cũng giúp các công ty lấy lại vốn và các ngân hàng thương mại duy trì tốc độ tăng trưởng tín dụng. Tiếp tục nâng cao năng lực quản lý rủi ro và xử lý nợ xấu để triệt tiêu nguồn vốn tăng trưởng tín dụng. Chủ động rà soát, tăng quyền tiếp cận khách hàng, đánh giá và lựa chọn những khách hàng phù hợp có thể vượt qua những thách thức trước mắt, tin tưởng giao cho họ. Cần tiếp tục đầu tư vào các dịch vụ ngân hàng để giúp nâng cao năng lực cạnh tranh, duy trì niềm tin của xã hội đối với hệ thống ngân hàng và duy trì tăng trưởng huy động khi nhu cầu tín dụng tăng lên. .
Công ty cũng phải nỗ lực thay đổi, nâng cao năng lực tài chính, kinh doanh, thể hiện khả năng sử dụng vốn tín dụng an toàn và hiệu quả. Một số vấn đề có thể cần đặc biệt chú ý bao gồm nợ và hàng tồn kho chưa thanh toán. Nâng cao chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh trên thị trường; điều chỉnh hoạt động kinh doanh dựa trên nguồn vốn; nâng cao năng lực quản trị, điều hành hiệu quả, tránh lãng phí vốn do đầu tư đa dạng …… (Nguồn: Maritime Bank)