Khi tôi học lớp 1 của trường tiểu học, trong cặp tôi chỉ có hai cuốn sách của các thế hệ, vài cây bút chì và một chiếc bảng đen nhỏ. Hai cuốn sách này là chính tả và toán học. Vở chỉ có một cuốn vở luyện chữ gồm 10 chữ số thập phân từ 0 đến 9.
Trong sách chính tả, bài học đầu tiên là về các chữ cái, cách phân biệt giữa nguyên âm và phụ âm. Trong số các nguyên âm, phụ âm có phụ âm đơn và phụ âm kép. Theo dõi năm dấu hiệu (nhận dạng, cạnh huyền, vấn đề, bản thân, mức độ nặng). Tiếp đến là quy tắc chính tả, ghép các nguyên âm vào phụ âm cuối rồi ghép phụ âm đầu (ví dụ, ưa do tình yêu nhựa sâu). “Ua” là một từ kép, và “nh” là một song ngữ. Sinh viên năm thứ nhất chỉ cần biết các quy tắc chính tả và phát âm đúng, nhưng không cần quan tâm “like”, “like” hay “plastic” nghĩa là gì? Đây là câu chuyện của những sinh viên chuyên ngữ cần phân tích lời nói để dạy tiếng Việt cho người nước ngoài. Bây giờ, sinh viên năm nhất nên hiểu phân tích lời nói như sinh viên đại học.
Trong sách toán học, học sinh bắt đầu học các kí hiệu toán học, kí hiệu số và kí hiệu. (Cộng, trừ, bằng …). Sau khi biết tất cả, cô giáo mới dạy đếm, rồi cộng trừ. Cô giáo đưa 4 ngón tay ra hỏi học sinh có mấy ngón? Họ trả lời và sau đó thực hành viết số, vân vân. Bài tập về nhà bao gồm các chữ cái và chữ số, các chữ và số này, học sinh phải viết đúng vào bốn ô vuông trong vở học sinh. Đây là toàn bộ khóa học năm đầu tiên.
Đối với sinh viên không tham gia khóa học, có thể hoàn thành tối đa một học kỳ. Những lúc rảnh rỗi, thầy lại dạy thêm nhiều thứ khác như văn-thể-mỹ hay nội quy trường học. Ví dụ, khi nào bạn nên đi học, khi nào bạn nên về? Xếp hàng vào lớp và ra về như thế nào, vị trí của bạn ở cùng hàng với những người trước sau như thế nào? Nước uống ở đâu, nhà vệ sinh, quen biết nhau giữa các học sinh … là thời bao cấp. Học sinh không phải làm gì ngoài việc học văn hóa.
>> Cải cách sách giáo khoa- “Đưa kiến thức từ lớp trên xuống lớp dưới”
Sau đó người ta cải cách giáo dục. Các nhà cải cách nhanh chóng nhận ra rằng có rất nhiều kỳ nghỉ trong năm đầu tiên của khóa học. Họ lấp đầy những khoảng trống thông qua vô số hoạt động phân tích lời nói và rất nhiều bài tập về nhà, giúp giải phóng phụ huynh học sinh khỏi “vất vả” với con cái của họ. Tôi muốn biết, tại sao chúng ta lại thay thế các hoạt động ngoại khóa, văn – thể – mỹ? Những người có giáo sư, tiến sĩ dường như vẫn theo những phương pháp cũ mà không có sự sáng tạo đột phá.
Nhìn ra nước ngoài, các nước phương Tây chủ yếu dạy văn-thể-mỹ, các môn văn hóa ngày càng giản lược. Ngược lại, môn văn hóa ngày càng nặng, trong khi thời lượng ngoại khóa không tăng. Có người từng nói rằng khóa học lớp 7 ở Việt Nam tương đương với khóa học lớp 9 ở Trung Quốc. Thực tế, đây là một đất nước mà khoa học kỹ thuật phát triển mạnh mẽ, nhưng học sinh của họ không học hành chăm chỉ như chúng ta. Họ học hành chăm chỉ như vậy nhưng họ có đang phát triển nền khoa học kỹ thuật của nước ta không?
Chúng tôi học rất nhiều, chủ yếu là để đào tạo “sinh viên chuyên nghiệp”. Có hàng chục thế hệ sinh viên chuyên nghiệp, nhưng tỷ lệ nhà khoa học trong số sinh viên này không đủ. Lý do rất đơn giản, chúng ta có trường chuyên nhưng không có đại học chuyên ngành, không có phòng thí nghiệm và xưởng thực nghiệm trị giá hàng chục triệu đô la, không có công trình khoa học quy mô lớn, nhiều người dày dạn kinh nghiệm nghiên cứu. Chi phí tài trợ lên tới hàng trăm triệu đô la.
Giáo sư, Tiến sĩ vào lớp, chỉ 20 phút là có thể hoàn thành buổi học, thời gian còn lại dùng để trả lời câu hỏi của học sinh. Nếu không ai muốn bất cứ điều gì, họ không cần phải đợi thời gian để rời khỏi lớp học. Vì rất bận rộn nên họ phải đăng công trình nghiên cứu khoa học trên tạp chí khoa học quốc tế hai năm một lần để làm bằng tốt nghiệp có giá trị để có thể tiếp tục làm việc tại trường. Đối với tôi, học đại học, bằng cấp cao chẳng để làm gì.
>> Cải cách giáo dục- “Thừa chiều sâu, thiếu bề rộng”
Thực tế, mọi người đang đặt hàng các công ty sản xuất sản phẩm. Tuy nhiên, nếu công ty không có đủ kinh phí để hỗ trợ nhóm R&D, họ sẽ đặt hàng với trường đại học để nghiên cứu và phát triển sản phẩm. Kể từ đó, tri thức khoa học là động lực của sự phát triển kinh tế. Chúng tôi đang cải cách hai phương pháp này, nhưng không có nghiên cứu khoa học, tại sao chúng tôi phải học?
Trong ba năm qua, chuyên ngành của chúng tôi phải học nhiều chuyên ngành hẹp, và mục tiêu là có thể tốt nghiệpỨng dụng rộng rãi. Để xét tuyển vào ngành này, bạn chỉ có thể áp dụng kiến thức của một vài chuyên ngành vào nhiều chuyên ngành hẹp mà bạn đã học. Nói cách khác, nếu bạn biết nhiều hơn, bạn có thể hiếm khi áp dụng. Ví dụ, ai cũng biết một bác sĩ phòng khám đa khoa bảy tuổi có khả năng xin việc cao, nhưng muốn khỏi bệnh thì phải học Chuyên khoa 1 trên bốn năm (chỉ học chuyên khoa hẹp). – Phương Tây thường hình thành các ngành nghề hẹp vì họ có tính chuyên nghiệp mạnh, kiểu này hay kiểu khác. Đối với chúng ta, nếu học rộng ra còn không xin được việc, chưa nói đến việc phản đối các ngành nghề thì tại sao phải chuyên môn hóa? Không có nghề thì sẽ không có nghiên cứu chuyên sâu, khoa học sẽ phát triển như thế nào? Nền giáo dục Việt Nam hơi lạc lõng và thiếu mục tiêu rõ ràng, chính xác. Vì vậy, chúng ta xuất khẩu nhiều và cũng nhập khẩu, và nền kinh tế của chúng ta phụ thuộc hoàn toàn vào xuất khẩu. nhập khẩu. Bản dịch của Covid-19, ở các quốc gia / khu vực giàu có, không ai trong chúng ta đặt hàng, chúng ta có thể đi đâu? Nếu không có hàng xuất khẩu, tôi có thể tìm tiền ở đâu để nhập khẩu? Trong phân tích cuối cùng, chúng tôi có một chiến lược phát triển cực kỳ mâu thuẫn và trái ngược nhau. Một là chi phí nhân công thấp, hai là xây dựng công nghệ cao. Không phải nói khoa học của chúng ta có đào tạo được nhân tài công nghệ cao hay không, mà là đặt câu hỏi trước hết nhân tài công nghệ cao có chấp nhận được mức lương rẻ không?
>> Bài viết này không nhất thiết phù hợp với quan điểm của VnExpress.net. Đăng tại đây .
Lin